Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2013

Trích đoạn chuyện đánh - đàm Ba Lê

Trích đoạn chuyện đánh - đàm Ba Lê

TP - Đã chẵn 40 năm Hội nghị Paris- cuộc đàm phán Paris, một Hội nghị dài nhất trong lịch sử đấu tranh ngoại giao thế giới, 4 năm 8 tháng 14 ngày. Thiên hạ chưa dứt luận bàn, vẫn tiếp tục viết về sự kiện đỉnh cao ngoại giao của nước Nam. Hình như chưa nhiều lắm về các góc khuất của cuộc đàm phán, chả hạn chuyện về những người thư ký, phiên dịch?
Kỳ 1: Biên chép của một thư ký
Bộ Ngoại giao có hai ông Lưu Văn Lợi. Một ông Lợi nguyên là Cố vấn Pháp lý của Đoàn Đại biểu Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Hội nghị Paris. Sau này là Bộ trưởng, Trưởng Ban Biên giới Chính phủ. Còn một Lưu Văn Lợi khác...
Ông Lưu Văn Lợi
Ông Lưu Văn Lợi.
“Cậu đi với tôi!”
Hơi bị hiếm trong trật tuổi cao, ông đã mấy lần bị tai biến nhưng ở tuổi 81, ông đi lại vẫn lanh lẹ. Quý nhất, vẫn mẫn tiệp. Ông biên ra giấy cho tôi cái meo và dặn nếu có viết lách gì thì meo trước cho ông coi. Người này khác thấy hơi ngài ngại nhưng với ông thì thấy chả thể khác? Ông vốn cẩn trọng.
Ông có những mấy cái nguyên. Nguyên thư ký riêng của Cố vấn Lê Đức Thọ, nguyên chuyên viên cao cấp Bộ Ngoại giao. Nguyên Phó Bí thư Đảng ủy, nguyên Tham tán công sứ Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô.
Cái duyên lọt vào mắt xanh ông Cố vấn Lê Đức Thọ có lẽ là lần ông Cố vấn từ Paris qua Matxcơva ngày 2-6-1968. Chàng trai Lưu Văn Lợi khi ấy là tùy viên Phòng văn hóa báo chí sứ quán có nhiệm vụ làm tin nhanh để phục vụ cho công việc của ông cố vấn.
Có lẽ ông cố vấn đã chóng bắt khả năng bén nhạy tình hình cùng là năng lực phân tích tổng hợp sự kiện và cả khả năng ngoại ngữ của chàng trai Lưu Văn Lợi, nên đã quyết và nói luôn ngày mai cậu đi với tôi sang Paris...
Đi với tôi không phải một vài ngày, mấy tháng, ít năm mà một lèo... 18 năm!
Chẳng hề vơi vợi mờ nhòe những ấn tượng cuộc hòa đàm đã hằn đậm vào tâm khảm của một người từng can dự. Ông cười rất vui rằng, hình như con Tạo vốn trớ trêu nhưng hữu tình khi để cặp Lê Đức Thọ- Kissinger gặp nhau? Các phiên họp riêng giữa Xuân Thủy, Lê Đức Thọ và Kissinger, cố vấn của Tổng thống Mỹ Nixon, đều rơi vào những thời điểm dài dặc.
Có ngày làm việc đến 13 tiếng, lấn sang cả đêm. Trưởng đoàn Xuân Thủy khi ấy tuổi 58. Ông Lê Đức Thọ sinh năm 1911, lúc ấy hơn 60 tuổi, nhiều hơn Kissinger gần một giáp (12 tuổi).
Kissinger tóc đen nhức, lực lưỡng cao to cứ như một đô vật! Nhưng tương phản với vóc dáng, Kít có số má mánh lới, xiên xẹo. Khởi đầu các cuộc gặp riêng thì cứ làm như vô tình lan man, chuyện nọ xọ chuyện kia. Và cứ nhè vào lúc chiều hay gần tối ( những thời điểm bất lợi cho nhịp độ sinh học của tuổi già) mới đưa việc chính ra tranh cãi. Hình như Kissinger chắc mẩm cái ông già Á Đông kia đã lử khử, nên cũng dễ rằm cũng ừ mà mười tư cũng gật.
Nhưng ông Kít hơi bị nhầm! Đàm phán càng kéo dài và càng khuya khoắt, ông Thọ càng tỉnh và thậm chí có lúc diễn thuyết dai dẳng làm cho Kissinger sau này phải bộc bạch trong hồi ký “Ông Thọ ở Paris đã mổ xẻ tôi bằng một con dao rất nhọn, với tay nghề của một nhà phẫu thuật.
Có những lúc ông ấy nói cả giờ, tôi bảo cái điều này tôi đã nghe nhiều lần rồi thì ông Thọ bảo: Ông nghe nhiều lần nhưng chưa thuộc, tôi nói lại...”.
Đồng chí Lê Đức Thọ với anh em thư ký, bác sĩ và phục vụ (ông Lưu Văn Lợi ngồi thứ hai trái sang)
Đồng chí Lê Đức Thọ với anh em thư ký, bác sĩ và phục vụ (ông Lưu Văn Lợi ngồi thứ hai trái sang).
Năm 1972 là giai đoạn đi vào thương lượng cụ thể. Hồi đó lập trường của hai bên khác nhau lắm, Mỹ muốn rút nhưng muốn giữ nguyên chế độ Thiệu - Kỳ, mà lại không công nhận Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam VN.
Lúc bấy giờ đã đi vào thảo luận về hiệp định rồi, hôm trước vừa thỏa thuận như thế nhưng hôm sau họ lại lật phắt lại.
Mỹ luôn luôn lấy cớ rằng chính quyền Sài Gòn không chấp nhận. Ở nhà, đồng chí Lê Duẩn đã dặn đồng chí Lê Đức Thọ: Anh sang bây giờ anh sẽ là tư lệnh ở mặt trận ngoại giao, làm thế nào thì làm, nhưng anh phải đạt được là “Mỹ rút, quân ta ở lại”.
Tháng 10-1972, tưởng đàm phán xong rồi, Tổng thống Nixon đã gửi thư cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nói rằng hiệp định đã có thể hoàn chỉnh, rồi Kissinger cũng huênh hoang nói rằng không còn điểm bất đồng gì lớn nữa.
Đã thỏa thuận là tháng 10 Kissinger sẽ sang Hà Nội ký tắt, rồi sau đó về Paris ký chính thức.
Mỹ đã nhượng bộ không đòi quân Bắc VN rút, chỉ yêu cầu có một số biểu hiện, thí dụ như hồi hương một ít, hay di chuyển quân, tượng trưng cũng được, để máy bay chụp ảnh, chứng minh cho dư luận Mỹ biết rằng cũng đòi được quân Bắc VN rút lui(!)
Ngạo mạn. Tráo trở. Lật lọng... Có lẽ ông Thọ quá rành tố chất của đối phương nên những cuộc gặp đầu tháng 12-1972, sau thời điểm R. Nixon trúng cử Tổng thống, tưởng muốn yêu sách cùng những làm mình làm mẩy gì cũng được, Kissinger đã bất ngờ rũ rối các thỏa thuận tháng 10, làm xộc xệch Hiệp định đã sơ thảo.
Đòi sửa hơn 60 điểm mấu chốt cốt yếu... Cố vấn Lê Đức Thọ và các thành viên phái đoàn ta vẫn điềm tĩnh.
Mỹ chỉ thua sau khi dùng B52 ném bom Hà Nội và chỉ thua trên bầu trời Hà Nội... Lời dặn của Bác năm 1967 có lẽ thời điểm này chợt thoắt trở lại buốt nhói trong tâm trí mọi người? Nhưng biết làm sao. Cố vấn Lê Đức Thọ cùng tùy tùng lặng lẽ ra máy bay...
Chuyến bay buồn
Động cơ chiếc Il-18 không như những lần đưa mọi người vào cảm giác chập chờn thiêm thiếp mà lần này ai cũng chong chong bồn chồn như có chi đó lây lan tâm trạng với ông Cố vấn? Paris nối Hà Nội bằng chuyên cơ Il-18 hoặc Il-62 của Liên Xô, nhanh thì 2,3 ngày đêm.
Chậm thì 4 ngày đêm theo lộ trình Paris - Maxcơva - Bắc Kinh - Hà Nội hoặc Maxcơva - Tasken - Cancutta - Hà Nội.
Nhưng lần này thì chưa đến hai ngày hai đêm. ( bây giờ loại Boeing hiện đại cho phép chế độ bay trực chỉ non - stop chỉ hơn 12 tiếng đồng hồ).
Khi tổ lái báo máy bay đã vào không phận miền Bắc, ông Cố vấn rời chỗ ngồi bước ra nói chuyện thân mật cùng tổ lái và mấy nhân viên phục vụ. Sau khi thăm hỏi nơi sơ tán của gia đình anh chị em, cái câu mà ông thấy là lạ, ông Cố vấn nói như thúc giục như một tiếng thở dài: Các cháu nói với gia đình nếu có điều kiện sơ tán càng xa Hà Nội càng tốt...
Xe chở ông cố vấn nhích chậm qua cầu Long Biên. Chốc chốc lại phải tránh những đoàn xe quân sự ngất nghểu dắt pháo phòng không. Vẻ như không khí trận mạc đã lẩn khuất đâu đây? Cây cầu năm lụt 1971, thày trò từ Paris về gặp trận bão lớn.
Đến giữa cầu phải chờ xe, ông bước xuống bất ngờ khuỵu người xuống vì sức gió. Chuyến này trở về không có bão nhưng ai cũng cuồn cuộn trong lòng một điềm triệu chi đó chẳng lành khi ngó những trận địa pháo 12,7ly và 14,5 ly đặt lển nghển trên thành cầu.
Khi ấy ông đâu biết phía mạn Chèm và quanh Hà Nội những trận địa SAM-2 cũng đã giăng... Hà Nội đã phòng bị trước những tráo trở, lật lọng!
Về đến nhà ông cố vấn ở số 6 Nguyễn Cảnh Chân đã hơn 6 giờ chiều. Đang lúi húi xếp tài liệu vào tủ sắt, định bụng xin phép tranh thủ về nơi vợ con sơ tán thì ông Cố vấn bước vào nói với anh em phục vụ thư ký phiên dịch đêm nay các cậu ở lại đây.
Thế nào chúng cũng giở trò... Khoảng non 2 tiếng sau, căn hầm ở số 6 Nguyễn Cảnh Chân chung chiêng vì những đợt bom B52 uỵch xuống Hà Nội.
...Ông cố vấn vẫn gượng dậy làm việc sau hai ngày liên tục sốt cao. Trước ông là một bức điện. Của Kissinger hối thúc Hà Nội nối lại đàm phán. Trước đó đã có tín hiệu tương tự nhưng dễ gì Hà Nội khuất phục trước sự tráo trở lật lọng. Bom đang xé toang không gian Hà Nội lại giở trò khiêu khích ép Hà Nội ngồi vào bàn Hội nghị? Nhưng càng lao đầu vào chiến dịch bạo tàn Linebacker-2 hủy diệt Hà Nội thì con số máy bay B52 bị quật rụng càng nhiều.
Sau đêm 26-12, tình thế cuộc chiến đã khác. Cục diện đã thay đổi. Ông Cố vấn vừa trở về từ hầm ngầm Điện Kính Thiên sau một cuộc họp trọng. Bộ Chính trị đã quyết định ngồi vào bàn Hội nghị nhưng không có bất kỳ sự nhượng bộ nào trên cơ sở bản Hiệp định như đã thỏa thuận hồi tháng 10-1972.
Ông Lợi phải trực tiếp và gặp mời Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đinh Nho Liêm đến gấp theo lệnh của ông cố vấn. Khi ông Đinh Nho Liêm tới, ông Cố vấn kéo ngay vào việc.
Mãi hồi lâu khi Thứ trưởng Liêm ra về, ông cố vấn còn dặn đi dặn lại không ghi chép, không mang theo tài liệu. Chỉ được ghi nhớ trong đầu.
Cậu phải bay trước sang Paris truyền đạt báo cáo lại với anh Xuân Thủy, chị Bình, anh Thạch cùng các anh các chị bên đó quan điểm của Bộ Chính trị... Đoàn ta sẽ sang sau…

Kỳ 2: Ủy ban giải Nobel đã sai lầm đáng tiếc
TP - Hình như trên các phương tiện thông tin, ít thấy đề cập cuộc phỏng vấn dài giữa ông Lê Đức Thọ với nữ phóng viên hãng thông tấn Mỹ UPI Synvana Foa ngày 15-3-1985? Bà S. Foa sau này là người phát ngôn của Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc.
Ông Lê Đức Thọ với các phóng viên quốc tế. Ảnh: Corbis
Ông Lê Đức Thọ với các phóng viên quốc tế. Ảnh: Corbis.
Cuộc phỏng vấn thú vị
Trong số cán bộ phục vụ, ông Lưu Văn Lợi là người hiếm hoi chứng kiến từ đầu đến cuối. Những dòng ghi chép với chức phận người thư ký có những dòng đại loại:
Tôi đã có 15 câu hỏi của bà, tôi có thể trả lời tổng hợp vào 4 vấn đề. Về giác ngộ cách mạng của tôi. Những khó khăn trong công tác mà tôi đảm nhiệm và ước vọng của tôi. Về Hội đàm Paris trong đó có 3 câu hỏi của bà. Câu hỏi về Hiệp định Paris. Về ông Kissinger trong Hội đàm. Về giải thưởng Nobel. Bà còn có câu hỏi, làm việc trong tập thể Bộ Chính trị, tôi thuộc phái nào? Diều hâu hay bồ câu?
Vào thời điểm ông Lê Đức Thọ từ chối giải Nobel Hòa bình, bằng chất giọng ôn tồn điềm tĩnh, ông cố vấn truyền đạt lại cho người thư ký nội dung trả lời Ủy ban Giải thưởng Nobel... Có một chút tò mò háo hức, tôi rụt rè đề nghị ông Lợi cho xem nội dung.
Ông Lợi ngồi lặng một lát như đang nhớ lại điều gì. Rồi ông đứng dậy, chậm chạp lên gác. Trong tay ông là một xấp giấy. Háo hức đón lấy. Thì ra, người thư ký năm xưa vẫn vẹn nguyên sự cẩn trọng cần thiết? Trên tay tôi vẫn là nội dung bản trả lời phỏng vấn của bà phóng viên UPI.
Tôi hiểu, trả lời của ông Lê Đức Thọ với bà phóng viên Mỹ gần như là toát yếu nội dung thư phúc đáp Ủy ban Giải thưởng Nobel mà ông Thọ là tác giả.
"Bây giờ tôi nói về Giải thưởng Nobel. Chúng tôi biết, Giải thưởng Nobel là một giải thưởng lớn với thế giới. Từ xưa đến nay có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nhưng tại sao tôi không nhận? Tôi không phải có khó khăn như bà nói đâu. Chỉ một điều là ai làm cho hòa bình? Bà biết rằng đây là giải thưởng Nobel cho hòa bình.
Mỹ tiến hành xâm lược đất nước tôi 20 năm. Người chống Mỹ và làm cho Mỹ thất bại, giành độc lập đưa hòa bình cho đất nước và cho cả khu vực này là chúng tôi. Người làm hòa bình là chúng tôi chứ không phải Mỹ.
Trong thư gửi Ủy ban Giải Nobel, tôi đã phân tích kỹ Mỹ tiến hành chiến tranh như thế nào? Nhưng Ủy ban Giải đã đặt ngang bằng kẻ xâm lược và người bị xâm lược, giữa kẻ gây chiến tranh và người tạo (làm) hòa bình. Coi chúng tôi cũng như Mỹ. Điều đó là sai lầm và tôi không thể chấp nhận như vậy. Vì vậy tôi đã không nhận Giải thưởng Nobel!
Bây giờ Việt Nam đã thống nhất, ông có nhận lại giải thưởng đó không?
Về cơ bản với tính chất của giải thưởng đó nó đã sai lầm ngay từ đầu, sai lầm cơ bản. Nếu bây giờ có giải thưởng riêng cho tôi thì tôi nhận.
Nhưng dù sao ông vẫn đi vào lịch sử như là người đã giành được giải thưởng đó?
Lịch sử ghi lại như vậy. Như đối với chúng tôi đó cũng là điều mà Ủy ban giải Nobel có sai lầm. Một sai lầm đáng tiếc".
Coi qua biên bản bài phỏng vấn nữ phóng viên UPI, thú vị khi biết thêm chi tiết về... những cái đập bàn của cố vấn Lê Đức Thọ!
Cũng cần nói thêm, những cái đập bàn ấy nó lạ đến mức các yếu nhân như Thủ tướng Trung Hoa Chu Ân Lai, Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Gromyko phải lấy làm ngạc nhiên (có lẽ mình chả thể hành xử được như ông Lê Đức Thọ nọ trước người khổng lồ Cố vấn an ninh Kissinger và ông này sau là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ?) Gẫm thêm thời điểm ấy, và cả cho đến sau này, trong số các chính khách hành tinh, hình như chưa có ai dám hành xử đại loại thế?
Xin trích ra đây câu hỏi của nữ phóng viên UPI:
"Trong trường hợp nào ông nói rằng Kissinger là người nói dối?
Trong khi hội đàm với ông ấy, nhiều khi ông ấy (Kissinger - NV) đồng ý rồi ngày mai lại lật ngược! Cho nên quá trình đàm phán những lúc như vậy tôi đã dùng những câu như vậy. Có lúc tôi cũng đập bàn. Ngoại trưởng Pháp Dobre hỏi tôi, có phải ông bảo Kissinger là người nói láo không, tôi bảo phải và ông ấy từng viết trong hồi ký như vậy. Khi trở về Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai hỏi có phải đồng chí đập bàn khi hội đàm với Kissinger không? Tôi trả lời đúng".
Có chuyện ép Mặt trận Quảng Trị?
Ngập ngừng nhưng rồi trong không khí chuyện trò cởi mở, tôi cũng bộc bạch ra được với ông một băn khoăn... Gần đây có dư luận, cụ thể là một cuốn sách đang xới lên việc những người chỉ huy chiến dịch Quảng Trị năm 1972 từng phải chịu rất nhiều áp lực từ các cuộc Hội đàm giữa Kissinger và Lê Đức Thọ!
Rằng không hiểu ông Lê Đức Thọ bằng con đường nào, đã thường xuyên điện thẳng cho các sư đoàn đang tham chiến ở Mặt trận Quảng Trị không qua điện đài của Bộ Tổng Tham mưu, vừa để nắm tình hình vừa tự ý đôn đốc đánh. Rằng ngay từ năm 1972 nhiều ý kiến phàn nàn “Cố đánh Quảng Trị là do nhu cầu đàm phán” v.v…
Ông Lợi vẻ nhẫn nhịn ngồi nghe… Để ý suốt cả cuộc nói chuyện, ông hầu như không ngắt lời khách. Thái độ ấy như là một thứ gien trội luôn thường trực của những người ở ngạch ngoại giao? Mãi một lúc, giọng ông mới khẽ khàng:
Như mọi người đều biết, sau chuyến thăm Bắc Kinh của TT Mỹ R. Nixon ngày 22-3-1972, Mỹ tuyên bố ngừng họp Paris vô điều kiện.
Ngày 30-3-1972, Quân giải phóng miền Nam mở chiến dịch Xuân Hè tấn công từ Quảng Trị đến Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Ngày 6-4-1972, TT Mỹ R. Nixon ra lệnh ném bom lại miền Bắc VN.
Sau chuyến thăm Matxcơva tháng 5-1972, ngày 11-6-1972 đoàn Mỹ gửi công hàm cho đoàn ta ở Paris đề nghị nối lại cuộc gặp riêng vào ngày 28-6-1972.
Thời điểm đó, ta đã giải phóng được Quảng Trị và Lộc Ninh. Trên cơ sở đánh giá tương quan lực lượng so sánh thế lực giữa ta và địch trên chiến trường quan hệ Mỹ - Xô - Trung và tình hình nội bộ chính trị nước Mỹ, Bộ Chính trị quyết định đã có thể tới lúc đi vào giải pháp đàm phán ở Paris.
Cố vấn Lê Đức Thọ sẵn sàng gặp riêng Kissinger chậm nhất là vào ngày 15-7-1972.
Một cuộc họp kín giữa Lê Đức Thọ và Kissinger đã được đôi bên thỏa thuận vào ngày 2-5-1972. Tình hình chiến trường đã giúp phái đoàn ta đến Paris với một tư thế ngẩng cao đầu.
Sáng 1-5-1972, Quân giải phóng chiếm cầu Quảng Trị và sân bay. Ngày 2-5-1972, Quảng Trị được giải phóng.
Một tuần trước đó, Quân Giải phóng đã triển khai một cuộc tấn công lớn đe dọa Kontum và Pleiku; tiêu diệt khoảng một nửa Sư đoàn 22 của Sài Gòn. An Lộc, một thị xã cách Sài Gòn hơn 100 km cũng gần như thất thủ.
Gần sát cuộc gặp, Sư đoàn 3 của Việt Nam Cộng hòa bị tiêu diệt hoàn toàn. Ở Quảng Trị, nhiều đơn vị Việt Nam Cộng hòa bỏ chạy tán loạn.
Nhiều thời điểm chúng ta đã nhuần nhuyễn khéo léo phối hợp hiệu quả giữa chính trị - quân sự - ngoại giao. Những dẫn chứng trên đây chứng tỏ sự nhịp nhàng giữa đánh vàđàm, kết hợp giữa thực tế chiến trường với bàn đàm phán (Đánh đàm Nam Bắc hai tay/Anh đi muôn dặm trời Tây gập ghềnh - thơ Tố Hữu tặng Lê Đức Thọ - NV).
Và mọi người đều biết, sau đó chiến dịch bảo vệ Thành cổ Quảng Trị kéo dài, thương vong rất lớn, ta đã chịu nhiều tổn thất.
Việc rút khỏi Thành cổ sau 81 ngày đêm chiến đấu một cách bi hùng không thể nói là không ảnh hưởng đến bàn đàm phán nhưng không làm thay đổi cục diện cũng như quan điểm cuộc đàm phán Paris.
Cũng cần nói thêm một điều hiển nhiên, quyết định thành bại ở chiến trường phải là người lính là sự phối hợp, điều phối chỉ huy từ Quân ủy và Bộ Tổng Tham mưu đến Tư lệnh các chiến trường trong việc tiến công lẫn phòng ngự. Nếu nói cố đánh Quảng Trị do nhu cầu đàm phán là hạ thấp vai trò của chỉ huy cũng như người lính!
Còn nói đồng chí Lê Đức Thọ không rõ bằng con đường nào, đã thường xuyên điện thẳng cho các sư đoàn đang tham chiến ở Mặt trận Quảng Trị không qua điện đài của Bộ Tổng Tham mưu, vừa để nắm tình hình vừa tự ý đôn đốc đánh là chưa hiểu thực tế thông tin liên lạc đặc thù cũng như cung cách thông tin thời điểm đó trên mặt trận ngoại giao.
Qua câu chuyện tất nhiên còn nhỏ giọt (có thể đến thời điểm này chưa phải toàn bộ tài liệu về cuộc hòa đàm Ba Lê đều đã được giải mật?) của người thư ký, tôi tạm hiểu toàn bộ các bức điện từ thông thường đến Mật cũng như Tối mật liên quan đến cuộc đàm phán, sau khi được mã hóa đã được chuyển từ Hà Nội đi Matxcơva qua thiết bị riêng do Liên Xô giúp đỡ.
Từ Matxcơva, những thông tin ấy lại được chuyển tiếp qua kênh liên lạc đặc biệt đến Trụ sở Phái đoàn ta ở Paris. Điện đi, điện về đều phải được tuân thủ theo một quy trình nghiêm ngặt. Quy trình ấy có sự tham gia của cá nhân và các bộ phận có trách nhiệm.
Do công việc, ông Lợi đều phải tiếp cận với những thông tin đó với các cấp độ mật khác nhau. Vậy nói ông Lê ĐứcThọ điện trực tiếp cho các sư đoàn (?) đang tham chiến, là điều không thể.

Mười năm nữa sẽ là thời điểm 50 năm kỷ niệm cuộc Hòa đàm Ba Lê. Nhưng tại sao đợi phải mươi năm nữa mới phát lộ những điểm son điểm sáng: Câu chuyện mà người lính già đầu bạc/ Kể mãi chuyện... Ba Lê này? Những chuyện Kissinger bí mật thăm Hà Nội ngày 12,13 tháng Giêng năm 1973. Chuyện tại sao Lê Đức Thọ lại không tiếp tục viết hồi ký ( mặc dầu đã từng được khởi thảo).
Chuyện thư ký Lưu Văn Lợi theo đồng chí Lê Đức Thọ vào chiến trường miền Nam rồi cả chuyện ông được trực tiếp nghe đồng chí Lê Đức Thọ kể lại hoàn cảnh đầu những năm 1950 quyết định cử Phạm Xuân Ẩn khi đó 28 tuổi (sau này là tướng tình báo, Anh hùng LLVT) đi học bên Mỹ như thế nào.
Và chuyện của ông Lợi trở lại công việc bỏ dở ở Sứ quán Việt Nam tại Liên Xô 18 năm trước...) Kẹt khuôn khổ bài báo dịp 40 năm này có hạn, xin kính khất bạn đọc một lần khác...

Kỳ cuối: Chuyện của một phiên dịch
TP - Cú điện thoại khuya khoắt vào một đêm đã xa giờ nghĩ lại còn hơi bị bàng hoàng chống chếnh. Một nhân chứng sát sạt cụ thể gần như từng ngày của cuộc hòa đàm Ba Lê không còn nữa...
Ông Lê Đức Thọ và H.Kissinger, người đứng giữa phía sau là ông Nguyễn Đình Phương. Ảnh: T.L
Ông Lê Đức Thọ và H.Kissinger, người đứng giữa phía sau là ông Nguyễn Đình Phương. Ảnh: T.L.
Cuộc gặp bí mật
Người mà có lẽ ai cũng nhìn thấy, đã đành chả biết mà cũng thoáng quên ngay mỗi khi ngó đến bức ảnh chụp có khi ba người, khi nhiều người bên cạnh Cố vấn Lê Đức Thọ và Kissinger, người mà cả hai đều cần.
Không hiểu sao tôi nghĩ ngay căn nhà như lọt thỏm trong hẻm nhỏ gần Văn Miếu. Và đến cái kính hơi bị lạ của ông trong căn phòng bề bộn sách vở. Nó na ná như thứ kính lúp.
Dày quá đít chai. Độ dày ấy mới có sức soi, phóng lên những hàng chữ li ti trong một tài liệu hay cuốn từ điển. Năm ấy ngoại thất tuần, mắt ông đã kém tợn.
Nhưng không ngày nào rời bàn, trừ những ngày ốm mệt. Ông chăm, ham việc lắm. Vẫn viết lách biên dịch theo những com măng nào đó của Bộ Ngoại giao.
Thuở ấy mắt ông Nguyễn Đình Phương còn tinh dù đã phải mang kính cận. Nguyễn Đình Phương, cái tên như "lọt thỏm" trong bể sự kiện cuộc hòa đàm Ba Lê.
Cũng phải thôi, hình như ít khi "sử" chép người phiên dịch trong những sự kiện trọng đại!? Ông không chỉ là phiên dịch mà còn là người trực tiếp chứng kiến một sự kiện hiếm hoi trong những trang sử ngoại giao kiệt xuất của nước Nam ta: Phiên dịch chính cho những cuộc đàm phán những cuộc gặp riêng giữa Xuân Thuỷ và Harriman và sau đó là các cuộc gặp riêng giữa Lê Đức Thọ và Kissinger suốt từ năm 1968 cho đến mùa xuân năm 1973!
Đặt chân đến kinh thành ánh sáng, hồi ấy ông mới ngoại tứ tuần cao lớn đường bệ, nhiều người nhầm ông là người ngoại quốc bởi có những nét hao hao...
Buổi trưa 3-6-1968 đến Paris, buổi chiều báo France Soir (Nước Pháp buổi chiều) có bài tường thuật trong bộ quần áo giản dị, ông Lê Đức Thọ có nụ cười của La Joconde...
Và đến Paris, ông mới biết bên cạnh diễn đàn chính của Hội nghị Paris, một diễn đàn mới bí mật đã xuất hiện. Đó là các cuộc gặp riêng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Mỗi bên chỉ một hai người , địa điểm gặp thường xuyên thay đổi và tuyệt đối giữ bí mật!
Người phiên dịch cao niên dẫn tôi về với cuộc gặp bí mật ngày 21-8-1968 giữa Xuân Thuỷ, Lê Đức Thọ với Harriman mà ông là phiên dịch chính sau 18 phiên họp công khai và 4 cuộc tiếp xúc riêng.
Đối diện Xuân Thuỷ, Lê Đức Thọ là Harriman nhà ngoại giao kỳ cựu của Mỹ nổi tiếng, là người thương lượng sành sỏi. Ấn tượng nhất là Bộ trưởng Xuân Thuỷ lúc nào xuất hiện và tất cả mọi trường hợp là nụ cười luôn nở rất tươi nhưng hôm đó nụ cười của Bộ trưởng đã tắt sau cú đấm đánh thình xuống mặt bàn.
Đó là khi Harriman đơn phương đòi có đại diện của Sài Gòn trong đàm phán. Khi bị từ chối thẳng thừng, Harriman đã dọa bom sẽ lại rơi trên đầu các ông! Xuân Thủy mặt nghiêm, giọng đanh lại "Ông dọa đấy à? Ném bom trở lại à? Chúng tôi sẵn sàng đánh lại!".
Lê Đức Thọ bình tĩnh hơn "Ông dọa bằng chiến tranh không được đâu! Chúng ta đã đánh nhau nhiều năm rồi còn lạ gì nhau...". Harriman ngồi lặng đi một lát rồi lẩm bẩm: "Tôi rút cái câu nói bom lại rơi trên đầu các ông...".
Người lính già đã qua 5 năm đánh và đàm ở "mặt trận" ngoại giao Paris ấy nở một cái cười sảng khoái... cặp Lê Đức Thọ - Xuân Thuỷ quả là lợi hại. Lúc Xuân Thuỷ "nhu" thì Lê Đức Thọ "cương" và ngược lại.
Lê Đức Thọ đa phần là "cương", nhưng cái cương không bao giờ bị gẫy vì đúng lúc vì có lý!". Tôi hỏi ông, Lê Đức Thọ "cương” như thế nào, thì ông cười, chậm rãi, có người nói Lê Đức Thọ gặp Kissinger là ngang sức ngang tài, nhưng có lẽ Kissinger đã đánh giá nhầm Lê Đức Thọ như sau này trong hồi ký mà ông ta đã viết...
Nói đến đây, ông lật cho tôi một trang "Thêm một lần nữa tôi đã đánh giá thấp Lê Đức Thọ. Ông có lối nhào lộn ngoại giao duyên dáng. Ông không hề lay chuyển trong cách định nghĩa khu phi quân sự..." và "Tóc hoa râm, đường bệ...
Lê Đức Thọ bao giờ cũng mặc bộ đại cán hoặc marông đôi mắt to và sáng ít khi để lộ sự cuồng tín đã thúc đẩy ông hồi 16 tuổi đi theo phong trào du kích cộng sản chống Pháp...
Lê Đức Thọ tiếp tôi với một sự lễ phép có khoảng cách của một người mà ưu thế hiển nhiên đến mức không thể làm khác được bằng một kiểu lễ phép gần như hạ cố...".
Có một chi tiết chắc Kissinger không ghi vào hồi ký là ngón tay đeo nhẫn của Lê Đức Thọ cứ bóng sáng và nổi bật lên chiếc nhẫn gò từ mảnh xác máy bay Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc! Ông đang tâm sự với tôi ấn tượng về cái ngày mồng 8-1-1973 khi bàn đàm phán Paris được nối lại sau trận Điện Biên Phủ trên không.
Như mọi người đã biết, sau cú lật lọng của Mỹ nên Hiệp định đã hoàn tất ngày 20-10-1972 đã không được ký kết. Mỹ muốn xóa bỏ Hiệp định và ý đồ bắt ta phải thay đổi nhiều điều khoản bằng việc bất ngờ dùng B52 tập kích Hà Nội, Hải Phòng.
Trong 12 ngày đêm ác liệt máu lửa ấy, cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ đã có mặt trong căn hầm đặc biệt ở ngay trong sân rồng ở Điện Kính Thiên cùng làm việc với Bộ Chính trị... Ba ngày đêm liền Cố vấn bị sốt cao.
Cơn thịnh nộ của ông Thọ
Ông Lê Đức Thọ và Kissinger ở Saint-Nom-La-Breteche, Pháp tháng 6-1973.
            Người mang kính đứng sát ông Thọ là Nguyễn Đình Phương.  Ảnh: Getty Images
Ông Lê Đức Thọ và Kissinger ở Saint-Nom-La-Breteche, Pháp tháng 6-1973. Người mang kính đứng sát ông Thọ là Nguyễn Đình Phương. Ảnh: Getty Images.
Trở lại Paris sáng 8-1-1973 trên đường đến chỗ họp ở Gifsur Yvette, Cố vấn Lê Đức Thọ kéo ông ra một góc: "Hôm nay toàn đoàn ta không thèm ra cửa đón đoàn Mỹ như thông lệ nữa. Và hôm nay mình sẽ nói mạnh đấy. Mình nói thong thả và cậu cố dịch theo đúng tinh thần".
Dù đã được dặn trước và đã trực tiếp chứng kiến hàng chục lần Lê Đức Thọ "cương" (quyết liệt, dai dẳng, kiên trì và cả nổi nóng.
Chắc đối phương cũng không ít lần nhầm vì Lê Đức Thọ với sắc mặt bừng đỏ! Ông Cố vấn vốn bị huyết áp cao, nhiều lần đoàn ta thảo luận trong phòng mật anh em đã phải tắt điều hoà mở cửa ra và thường bàn những thứ "đại sự" ở ngoài trời lúc đi dạo) nhưng chưa bao giờ ông thấy Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ trút cơn thịnh nộ lên đối phương như buổi sáng xuân Paris ấy! Lừa dối, ngu xuẩn, tráo trở, lật lọng...
Thôi thì đủ cả! Kissinger, "đạo diễn" chính của cuộc thảm sát bằng B52 với dân lành Khâm Thiên, An Dương... chỉ biết cúi đầu đứng nghe.
Mãi sau ông ta mới lắp bắp: "Tôi có nghe thấy những tính từ... Tôi xin không dùng những tính từ đó ở đây. Xin ông Cố vấn nói khe khẽ thôi không các nhà báo ngoài kia nghe được lại đưa tin là ông mắng chúng tôi!".
Kissinger một lần đã tò mò hỏi Lê Đức Thọ trong mấy phút nghỉ giải lao: "Bây giờ ông Cố vấn đàm phán với tôi, nói như mắng tôi. Thế còn sau này kết thúc đàm phán chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình rồi, ông Cố vấn mắng ai? Ngài có mắng cán bộ của mình như mắng tôi không?".
Lê Đức Thọ điềm nhiên: "Xin Ngài chớ nặng lời lúc tôi trình bày với Ngài. Tôi chỉ nói lên tiếng nói của nhân dân tôi thôi. Cán bộ của tôi có quay quắt lật lọng tráo trở đâu mà tôi phải mắng!".
Tôi hỏi người lính già trong trận đàm đánh ở Paris ấy, cuộc nào là "căng" nhất thì ông cười "cuộc nào mà chả căng! Anh em trong đoàn đàm phán nói vui là đoàn có ông Sáu Thọ, thọ là lâu dài lại có ông phó đoàn Hà Văn Lâu, cũng là lâu dài nên nhiệm vụ ở Paris phải là trường kỳ kháng chiến?!".
Nhưng có một cuộc, theo ông là "căng" nhất. Đó là phiên hai bên soạn thảo những điểm cơ bản trong Hiệp định, vào ngày 11-10-1972. Từ 9 giờ sáng 11 kéo một mạch đến 2 giờ sáng hôm sau mà như Kissinger đã ghi trong hồi ký "nói là thương lượng một mạch 16 giờ liền nhưng trên thực tế là 22 giờ đồng hồ".
"Quân" của cả hai bên thi thoảng phải ra ngoài dùng cà phê đặc hoặc hút thuốc, nhưng, Lê Đức Thọ trừ những lúc đi vệ sinh, liên tục ngồi đấu lý với Kissinger!
... Căn phòng ngủ kiêm nơi làm việc tiếp khách của người lính già trong trận đánh - đàm Paris năm ấy có vẻ hơi bề bộn. Các loại sách tài liệu, thứ tiếng Anh, thứ tiếng Pháp từ trên giá tràn xuống, đậu chi chít trên hai chiếc ghế lớn ghép lại được coi là bàn.. Lọt thỏm trong đám sách vở giấy tờ là chiếc máy chữ chuyên gõ tiếng Anh kiểu cổ chỉ bằng khổ chiếc điện thoại để bàn.
Thứ bề bộn của những người lấy sự mê say công việc làm trọng và thứ nữa, thiếu vắng bàn tay chăm sóc của người vợ thân yêu... Xong Hội nghị Paris, ông về công tác ở Bộ Ngoại giao.
Đang ở cương vị Vụ trưởng Tây Bắc Âu, ông được kiêm thêm chức bằng việc làm đại sứ kiêm nhiệm ở các nước Bắc Âu gồm Thuỵ Điển, Đan Mạch, Na Uy, Iceland...
Giữa những năm 1980, ông về đưa vợ sang theo tiêu chuẩn vì bao năm vợ chồng ông cứ biền biệt... Vợ ông bảo chồng cứ sang trước còn mình thu xếp việc nhà ít bữa nữa sẽ qua.
Có ai ngờ một trận cảm nặng đã cướp mất bà. Từ ấy đến lúc về hưu năm 1992, ông cứ vò võ như thế. May mà tổ ấm của 4 người con, hai trai với hai gái cùng 7 đứa cháu đã giúp ông trụ lại trong cái thành phố ràn rạt những người là người này...
Chứng nhân lịch sử Nguyễn Đình Phương mất ở tuổi quá bát thập.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét